Sep 09, 2022

Từ lời kinh đến ý kinh

Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 1)

Sự đọc tụng lời kinh nhằm mục đích hiểu biết ý kinh. Lời kinh diễn tả ở tiếng nói hay chữ viết là phương tiện truyền thông đem ý kinh tức ý Phật truyền dạy Chánh pháp cho đệ tử chúng sanh. Ý kinh tức Chánh pháp là cứu cánh việc đọc tụng lời kinh.

Ẩn dụ Ngón tay chỉ mặt trăng dẫn giải sự phân biệt lời kinh với ý kinh: Phật dùng ngón tay chỉ mặt trăng cho đệ tử chúng sanh nhìn. Ngón tay là phương tiện, là lời kinh để lại cho hậu thế. Mặt trăng là đối tượng việc chỉ cho nhìn, là dụng tâm cứu độ của Đức Phật.

Việc nhận thấy mặt trăng cứu cánh việc nhìn của đệ tử chúng sanh. Người sáng suốt nhìn thấy mặt trăng, nghĩa là tiếp nhận được Chánh pháp do Phật truyền cho; người mê mờ lại chú tâm vào ngón tay của Phật dù với tất cả tấm lòng kính tín, tin rằng ngón tay của Phật tức lời kinh là Chánh pháp được Phật truyền cho. Ẩn dụ này chỉ dẫn cho người đọc tụng kinh Phật cần nương theo lời kinh để nhận thức ra ý kinh, nhờ phương tiện ngôn ngữ văn tự để hội nhập Chánh pháp.

Một ẩn dụ khác dẫn giải nội dung tương tự, đó là lời khuyến tu Qua sông hãy bỏ bè lại. Con sông là sự ngăn cách hai bên bờ làm cho không thông nhau. Bờ bên này gọi là Bờ Mê tiêu biểu cho chỗ đứng của người còn vô minh mê muội chưa nhận ra Chân lý. Bờ bên kia gọi là Bến Giác tiêu biểu cho chỗ đứng của người giác ngộ thông hiểu Chân lý. Cái bè chở người qua sông từ Bờ Mê sang đến Bến Giác tiêu biểu cho các pháp môn hành giả đã tín giải và hành trì. Cái bè là phương tiện chở khách sang ngang mặt sông từ bên này sang bên kia. Khi cập bến bên kia người bộ hành rời bỏ cái bè để tiếp tục cuộc hành trình cho tới đích là Giải thoát, tự giác tự dộ và giác tha độ tha, Các pháp môn là phương tiện, Giải thoát là cứu cánh, là đích tối hậu cần quan tâm đạt tới.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Do đó, người thiện học cần rời bỏ các pháp môn khi đã chứng đắc để tiếp tục con đường Giải thoát. Khi đã cập bến Giác nghĩa là đã chứng đắc các pháp môn tốn công phu hành trì bấy lâu, hành giả cảm thấy hoan hỷ dễ sinh tâm kiêu mạn, chấp lấy các pháp môn sở đắc ngộ nhận đó là cứu cánh, con đường Giải thoát. Đây là trường hợp tăng thượng mạn, mới chứng đắc một số pháp môn đã ngộ nhận cho rằng chứng quả Bồ Đề, Quả Phật. Nguyên do là hành giả chưa tẩy sạch hết trong tâm thức những chủng tử ô nhiễm vi tế vừa tham vừa si. Nói là tham vì còn ham nhanh chóng đắc quả Phật chứng nhập Niết bàn, nói là si vì không sáng suốt nhận ra mới đi được một vài chặng đã tin tưởng là đi lên tận cùng con đường Giải thoát.

 

Một ẩn dụ cụ thể từ trong đời sống thực tế làm sáng tỏ đề tài từ lời kinh đến ý kinh đồng thời giới hạn nội dung bài viết, đó là việc chuyên chở thực phẩm bằng xe vận tải. Thực phẩm coi như nội dung ý kinh tức Chánh pháp là món ăn tinh thần đầy chất bổ dưỡng dùng để nuôi cho trưởng thành Chân tâm bẩm sanh vốn có tính thiện của đệ tử chúng sanh. Chiếc xe vận tải là lời kinh tức chữ viết khi đọc kinh hay tiếng nói khi nghe thuyết pháp. Nơi gửi là chư Phật và hàng ngủ Sứ giả Như Lai đảm trách việc thuyết pháp giảng kinh. Nơi nhận là mười phương đệ tử chúng sanh.

Bài viết trình bày trong giới hạn chi nói đến việc nhận hàng thực phẩm, không nói đến việc gửi hàng. Đó là sự tiếp nhận lời kinh và hội nhập ý kinh của người tu Phật.

1. Vô tự chân kinh, vô ngôn chánh Pháp  

Đây là câu cảnh giác người trì kinh tu Phật: Chân kinh là Chánh pháp không thể diễn tả bằng chữ viết hay lời nói được. Lời kinh là phương tiện truyền đạt hữu hình có sắc tướng nhìn thấy được bằng mắt, nghe thấy được bằng tai. Ý kinh tức Chân kinh tức Chánh pháp là cứu cánh truyền đạt thì vô hình vô tướng, không có sắc không có thanh nên không thể tiếp nhận bằng mắt bằng tai. Sự tiếp nhận và hội nhập ý kinh do ở bộ óc, ở trí khôn hay lý trí, Phật học gọi là trí tuệ của người đọc kinh hay nghe kinh. Sự bất toàn của cơ quan thị giác, cơ quan thính giác được dẫn chứng ngay trong lời nói thông thường hàng ngày: nói ra lời ăn hai bát cơm, người nghe hiểu được ý ăn hai lượng cơm, mỗi lượng cơm đựng trong cái bát.

Nếu chấp vào lời, người nghe thiếu trí khôn sẽ hiểu là ăn hai cái bát, trong mỗi bát có đựng cơm. Thí dụ này nghe trái tai nực cười nhưng dẫn giải được rõ ràng nội dung Vô tự Chân kinh, vô ngôn Chánh pháp. Lối nói ăn hai bát cơm nghe nực cười vì không ai nhầm lẫn như vậy, cái bát và hột cơm đều là vật cụ thể hữu hình có sắc tướng. Trường hợp Chân kinh, Chánh pháp khó nhận ra sự khác biệt với lời kinh, chữ viết hay lời nói vì Chân kinh Chánh pháp là thực thể (cái có thực) nhưng vô hình không có sắc tướng.

Trường hợp ẩn dụ xe chở hàng thực phẩm cũng vậy. Chiếc xe và thực phẩm đều là vật cụ thể hữu hình trong khi lời kinh thì hữu hình ý kinh lại vô hình. Dùng ẩn dụ là phương tiện bất đắc dĩ để dẫn giải một đối tượng không thể dẫn giải được trung thực, chính xác và trọn vẹn bằng chữ viết hay lời nói. Phật học gọi cách dùng này là một dạng của Ly tướng nhập tánh, diễn nôm là rời khỏi Pháp tướng để nhận ra Pháp tánh, ý nói rời khỏi hiện tượng biểu lộ ra ngoài là lời kinh để nhận biết ra nội dung bản thể ẩn dấu bên trong là ý kinh.

Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 2)

Lễ Phật, ăn chay giữ giới, trì kinh niệm chú, tham thiền nhập định đều là phương tiện để hành giả tiến bước trên đường Giải thoát.

 

2. Sự hội nhập chân kinh

Cứu cánh việc tu Phật là giải thoát cho tự thân và tha nhân ra khỏi Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới). Lễ Phật, ăn chay giữ giới, trì kinh niệm chú, tham thiền nhập định đều là phương tiện để hành giả tiến bước trên đường Giải thoát. Chân kinh hay Chánh pháp là thực phẩm, tất cả các phương tiện vừa kể chi là chiếc xe chở hàng. Người con Phật vâng theo lời Đức Từ phụ với lòng kính tín phải làm sao để nhận xe chở thực phẩm, bốc dỡ thực phẩm ra khỏi xe đem vào cất trong nhà, trong kho để dùng nuôi dưỡng thân tâm.

Vai trò của chiếc xe chở thực phẩm đến đây là chấm dứt, không cần đến nữa. Người sáng suốt không ai lưu giữ chiếc xe đã không dùng đến lại thêm choán một chỗ đậu gây cản trở sinh hoạt cho người chủ nhà, chủ kho sau khi nhận hàng. Việc cất thực phẩm vào trong nhà, trong kho là sự hội nhập Chân kinh, hay nói cách khác là sự thực chứng Chánh pháp.

Để nhận thức tường tận sự hội nhập Chân kinh thực chứng Chánh pháp cần quán chiếu đầy đủ ba giai đoạn:

Giai đoạn tiền hội nhập

Giai đoạn này thuộc thời quá khứ hồi quán ngược dòng thời gian nhìn về những tiền kiếp của hành giả. Sự thành tựu hội nhập Chân kinh do ở Thiện căn đã gieo nhân lành từ nhiều kiếp trước. Nhân lành này hội với Pháp duyên ở hiện thời đang sống kiếp thế gian. Nhân và Duyên hội ngộ đưa đến cơ hội có kinh sách, có thày truyền dạy, có bạn khuyến tu làm phát khởi tín tâm và nhất tâm tu học.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Giai đoạn này bắt đầu từ thời điểm trong một tiến kiếp nào đó hành giả gieo hạt nhân lành đầu tiên. Nhiều hạt nhân lành tiếp tục được gieo trải nhiều kiếp trong quá khứ tạo thành Thiện căn, cũng gọi là Căn tu hay Nghiệp căn. Giai đoạn này chấm dứt ở thời điểm trong hiện kiếp khi hành giả bắt đầu đọc tụng, trì kinh. Đối chiếu với ấn dụ chiếc xe hàng chở thực phẩm có những nhận định như sau:

 

Hành giả phát tâm cầu học tu đạo là khi người con Phật đang tin tưởng và ngóng chờ xe hàng chở thực phẩm đến nhà mình, cảm thấy đói ăn là đau khổ phiền não, cần có thực phẩm để ăn cho no đủ. Đây là Thiện căn báo ứng cho biết nên cảm thấy đói, hiển lộ ở hành vi đón đợi xe hàng chở thực phẩm. Đây là sự cầu học, tìm thấy tìm bạn để tiến tu.

Hành giả gặp cơ hội có kinh sách, có thày bạn. Đây là Pháp duyên hội với nhân lành vừa nói ở trên. Đức Phật có trí tuệ vô ngại nhìn thấu suốt tâm tư của từng đứa con đang đón đợi thực phẩm, đang cầu ơn cứu độ của đức Phật. Cần hội đủ cả hai yếu tố Nhân và Duyên thì việc nhận xe hàng chở thực phẩm mới thể hiện. Thiếu Nhân thì dù xe hàng chở thực phẩm đến đậu ngay trước nhà, chúng sanh vô minh mê mờ không biết mở cửa ra để nhận thực phẩm. Thiếu Duyên là trường hợp chiếc xe hàng chở thực phẩm chưa đi đến đích địa điểm nơi nhận hàng và sẽ tới trong tương lai. Nguyên do tại Thiện căn tích lũy chưa đầy đủ, chưa đủ lực cảm ứng hội với Pháp duyên. Khi Thiện căn đầy đủ thì Pháp duyên hiện tới ngay, đó là lý Nhân Duyên tương ứng (1).

Giai đoạn tiền hội nhập này hành giả chưa phát tuệ đến mức độ có thần lực soi tỏ quá khứ tiền kiếp của chính mình, chỉ vững tin sự kiện xảy ra như thế, chưa nhận biết được chi tiết rõ ràng.

Giai đoạn hiện thời hội nhập

Giai đoạn kế tiếp này bắt đầu ở kiếp hiện tại vào thời điểm hành giả cất bước đầu tiên trên đường tu học hành trì Chánh pháp và chấm dứt ở thời điểm hội nhập Chân kinh. Đối chiếu với ẩn dụ xe hàng chở thực phẩm, đây là thời gian đón nhận xe, bốc dỡ hàng và đem hàng vào trong nhà, trong kho. Đón nhận xe chở đầy hàng là việc đọc tụng kinh, bốc dỡ hàng ra khỏi xe là hành trì kinh, bỏ xe lại chỉ đem hàng vào trong nhà, trong kho là việc hội nhập ý kinh. Chỗ chứa hàng trong nhà hay kho chứa hàng là thức thứ tám trong Bát thức, gọi là A-lai-da thức hay Tàng thức (2).

Giai đoạn đón nhận xe, bốc dỡ hàng và đem hàng cất trong nhà trong kho cần được nhận định và phân tách tường tận vì chính trong giai đoạn này dể xảy ra sự sai sót nhầm lẫn như giữ lại cả xe lẫn hàng, không biết cách bảo trì hàng sau khi đã cất vào trong nhà trong kho. Điều ngộ nhận quan trọng, và chót cùng là tin rằng hết việc không còn gì phải làm sau khi hàng đã đem vào nhà hay nhập kho, quên mất việc phải đem ra ăn. Do đó hàng thực phẩm gửi đến đem cất giữ trong nhà trong kho cẩn thận một cách vĩnh cửu. Đem thực phẩm ra ăn để nuôi sống tự thân và tha nhân mới là cứu cánh hành đạo. Sau khi hội nhập ý kinh, thực chứng Chánh pháp còn phần cứu cánh hành dạo, đó là hóa độ tự thân và tha nhân. Đây là giai đoạn hậu hội nhập kế tiếp trình bày dưới đây.

Giai đoạn hậu hội nhập

Giai đoạn này mang tên hậu hội nhập hàm ý có liên hệ nối liền với hai giai đoạn trên. Chú trọng đến cứu cánh hành đạo thì gọi là giai đoạn hóa độ hay hành hóa. Giai đoạn này bắt đầu từ thời điểm khởi phát tâm Bồ Đề, hành trì Lục độ ba-la-mật và chấm dứt ở thời điểm nhập diệt Niết-bàn, thể hiện ở kiếp này hoặc ở những kiếp sau.

Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 3)

Làm sao có được con mắt xuất thế gian để nhìn thấy Nghiệp căn tức Nhân đã gieo trồng từ nhiều kiếp trước ? Hay rõ ràng hơn, làm sao có được khả năng quán chiếu thấy được Chân kinh trong khi mình chỉ có hai con mắt để nhìn thấy chữ viết kinh và hai cái tai để nghe thuyết pháp?

 

3. Phân tách sự hội nhập chân kinh

Chân kinh là Chánh pháp, khác lời nhưng cùng một nội dung. Khi nói Chân kinh là hàm ý nội dung chân thực do từ Đức Phật nói ra, Kinh là lời nói do Đức Phật nói ra. Khi nói Chánh pháp là hàm ý tính cách chân chánh của Pháp Bảo, khế hợp với Chân đế tức Chân lý tuyệt đối.

Phân tách sự hội nhập Chân kinh chỉ nói đến giai đoạn thứ hai Hiện thời hội nhập là cách phân tách với con mắt thế gian, mức độ quán chiếu còn thiếu chiều sâu, chỉ thực hiện trong thời gian hiện tại xảy ra sự việc, không quán về quá khứ. Sự phân tách này chỉ đem lại việc nhìn thấy Quả kết thành trong thời hiện tại mà không nhìn thấy Nhân đã gieo trồng trong thời quá khứ. Sự phân tách đầy đủ rốt ráo cần thực hiện với con mắt xuất thế gian có khả năng thâm quán chiếu suốt không gian và thời gian, nhận định rõ ràng sự khác nhau giữa Nhân, Duyên, Quả và Báo cũng như mối liên hệ tương ứng mật thiết giữa bốn yếu tố này. Đó là sự vận hành diễn tiến thành tựu một sự việc, một hiện tượng, Phật học gọi là Pháp hay Sự. Sự vận hành gọi là Lý, cũng gọi là Đạo.

Một câu hỏi then chốt: Làm sao có được con mắt xuất thế gian để nhìn thấy Nghiệp căn tức Nhân đã gieo trồng từ nhiều kiếp trước ? Hay rõ ràng hơn, làm sao có được khả năng quán chiếu thấy được Chân kinh trong khi mình chỉ có hai con mắt để nhìn thấy chữ viết kinh và hai cái tai để nghe thuyết pháp?  Câu giải đáp: Con mắt thế gian chỉ có khả năng nhìn thấy chữ viết kinh, cái tai thế gian chỉ có khả năng nghe được lời thuyết pháp giảng kinh. Khả năng này gọi là thức, con người thế gian bình thường ai cũng có tám khả năng nhận biết gọi là Bát thức (2). Con mắt xuất thế gian, cái tai xuất thế gian có khả năng nhận biết sâu xa, chính xác và trọn vẹn, do đó nhận biết ra được Chân kinh, hiểu thấu Chánh pháp. Khả năng này gọi là trí tuệ, nói tắt gọn là trí.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Theo từ ngữ, Trí là sự hiểu biết thông suốt bao trùm khắp cả, dân gian thường gọi là trí thông minh, lý trí, óc sáng suốt bén nhậy linh động, nhận thức tinh vi tế nhị. Phật học chia Trí tuệ thành năm bậc gọi là Ngũ trí (3). Người có khả năng hội nhập Chân kinh, nhận thấy lời kinh mà hiểu ra được ý kinh là người có công phu tu tuệ, trau dồi tuệ lực đạt đến mức độ chuyển hóa Bát thức người thế gian ai cũng có thành ra Ngũ trí chỉ người giác ngộ mới đạt tới.

Câu giải đáp này rõ ràng mạch lạc nhưng chưa thông suốt đầy đủ vị làm nẩy sinh ra câu hỏi thứ hai: Làm sao để chuyển hóa từ Thức thành ra Trí, từ Vô minh mê mờ thành ra Giác ngộ sáng suốt ? Sự chuyển hóa này diễn tiến ra sao? Do động lực nào? Tha lực cầu xin Phật ban ân cứu độ hay tự lực hành trì các pháp môn theo học? Có nhiều câu giải đáp khác nhau:

Chuyển hóa từ Bát thức thành ra Ngũ trí

Theo Pháp tướng tông chỉ có Tứ Trí, sự chuyển hóa từ Bát Thức thành ra Từ Trí như sau:

- Năm thức đầu (Nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức và thân thức) chuyển thành Thành sở tác trí, cũng gọi là Thành sự trí.

 

- Thức thứ sáu Ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí.

- Thức thứ bảy Mạt-na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí.

- Thức thứ tám A-lai-da thức chuyển thành Đại viên kinh trí.

Theo Mật tông có thêm trí thứ năm là Pháp giới trí. Đây là trí tuệ có khả năng thấu suốt trực tiếp Pháp tánh của vạn pháp không cần nương theo Pháp tướng. Chính vì lý do này Pháp tướng tông không thừa nhận Pháp giới trí và lập luận Bát thức chuyển hóa thành Tứ trí. Trong Phật học khi dẫn chứng về các loại trí tuệ thường nói đến Ngủ trí nhiều hơn là Tứ trí. Xin xem dẫn giải chi tiết ở chú thích 2 và 3.)

Chuyển hóa theo thứ bậc trong Ngũ nhãn

Theo từ ngữ Ngũ nhãn là năm loại mắt, năm cách nhìn. Ở đây nghĩa theo Phật học là năm thứ bậc nhận thức vạn pháp, năm trình độ hiểu biết về mọi sự việc, năm nhãn quan, năm quan niệm về nhân sinh và vũ trụ. Năm cách nhìn này kể từ hàng ngũ phàm phu đến bậc viên mãn Phật quả, nghĩa là từ trình độ người thường mê muội đến trình độ cao siêu nhất chỉ thấy ở chư Phật. Năm nhãn quan gồm có:

1. Nhục nhãn: Nhận biết nông cạn của giới phàm phu mê muội, chậm lụt. Theo từ ngữ là con mắt thịt như dân gian thường nói Người trần mắt thịt, có mắt như mù có tai như điếc. Trường hợp nói ngoa Có mắt như mắt lợn luộc. Thành ngữ nói Ngu như lợn, ở đây còn tệ hơn là con lợn đã đem luộc không được như con lợn đang còn sống.

2. Thiên nhãn: Nhận biết siêu nhiên của chư Thiên, nhìn thấy cả quá khứ vị lai, Địa ngục Niết-bàn...

3. Pháp nhãn: Nhận biết thấy các pháp hiện hữu có đa dạng, một hiện tượng thay đổi nhiều trạng thái sắc tướng khác nhau...

4. Tuệ nhãn: Nhận biết xuyên qua Pháp tướng thông suốt đến Pháp tánh Chân Không của vạn pháp, nghĩa là nhận ra chân lý tuyệt đối trong mọi sự kiện. Phật học gọi là thực chứng tánh Không, thấy được Chân Như, thấy được Như Lai.

5. Phật nhãn: Nhận biết thấu suốt cả vạn pháp, không còn một trở ngại nào từ tánh Chân Không duy nhất đến tướng ứng hóa vô số vô lượng, bao trùm tất cả pháp giới vô biên vô cùng. Phật nhãn được gọi bằng nhiều danh xương khác, thường nói đến là Phật trí, Phật tuệ, Nhất thiết chủng trí, Chánh biến trí...

Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 4)

3. Phân tách sự hội nhập chân kinh

Chuyển hóa theo lý Nhân Quả

Sự chuyển hóa từ Bát thức thành ra Ngũ trí căn cứ vào sự phân loại bộ phận trong cơ thể con người đảm trách chức năng nhận biết như Nhãn thức tức thị giác do con mắt, Nhĩ thức tức thính giác do cái tai... Sự chuyển hóa theo thứ bậc trong Ngũ nhãn căn cứ vào mức độ khả năng nhận biết từ thấp đến cao. Hiểu rõ hai sự chuyển hóa này cần biết thêm sự chuyển hóa theo lý Nhân Quả để thông suốt sự hội nhập Chân kinh, ngõ hầu sau đó mới thực hiện được sự hành hóa cứu độ.

Dẫn giải bằng trường hợp cụ thể, mượn ẩn dụ đi xe từ điểm đi đến điểm tới. Điểm đi là sự tiếp nhận lời kinh, đọc tụng hay nghe thuyết pháp. Điểm tới sự hội nhập ý kinh, chứng nghiệm Chân Kinh. Người lái xe mới có cái xe (Sự tiếp nhận lời kinh) nhưng chưa rõ hành trình ra sao để đi tới đích (Sự hội nhập ý kinh). Giao cho người lái xe bản đồ là chỉ rõ cách đi, qua mấy chặng đường (Bát thức, Ngủ trí, Ngũ nhãn). Câu hỏi đặt ra: Người lái xe đã hội đủ điều kiện cần thiết để đi tới đích chưa ? Xin thưa: Chưa, còn cần đủ xăng để chạy suốt hành trình. Xăng nói ở đây là động lực, là nguyên do thức đẩy chiếc xe chuyển bánh. Xe tốt, bản đồ rõ ràng nhưng thiếu xăng thì chỉ đứng tại chỗ nhìn xe, cầm bản đồ để ước mơ tới đích, cái đích không tới được. Ẩn dụ người lái xe cho thấy rõ sự bố túc cần thiết sự chuyển hóa theo lý Nhân Quả trong việc hội nhập Chân kinh.

Sự hội nhập Chân kinh là một sự kiện thực hữu được dẫn giải theo lý Nhân Quả bắt đầu từ động lực tức tác dụng của thiện căn.

 
Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Sự kiện nào cũng do Nhân hội với Duyên mới sinh ra. Nhân đóng vai trò chính yếu Nhân nào Quả ấy. Duyên đóng vai trò phụ trợ cần thiết nên gọi là Trợ Duyên. Nhân lành thường gọi là Thiện Căn tương ứng với Duyên may thường gọi là Pháp Duyên, Phúc Duyên hay Thuận Duyên chỉ cơ hội thích ứng với Thiện Cân để dẫn tới Thiện Quả cũng gọi là Quả Phúc. Nhân bất thiện thường gọi là Ác Căn, Tội Căn tương ứng với Nghịch Duyên chỉ những điều kiện xấu gặp phải, tiếp tay với Tội Căn để dẫn tới Ác Quả tức Tai Họa.

Hội nhập Chân kinh là sự kiện tốt lành có Nhân là Thiện Căn vun trồng từ nhiều kiếp trước, hội với Pháp Duyên ở kiếp này là việc đọc kinh, nghe kinh. Vun bồi Thiện Căn là Tự lực, Trợ Duyên là Tha lực. Sự hội nhập có hay không, nhiều hay ít, liên tục trọn vẹn hay bỏ ngang thiếu sót, chính xác với Chân kinh hay lạc sang Tà đạo, tai nghe lời Phật mà óc hiểu được ý Phật hay hiểu nhầm sang ý Ma... Tất cả đều do ở Nghiệp Căn là Thiện hay Ác, Trợ Duyên cần thiết vẫn giữ vai trò phù trợ dù lời kinh ở pháp môn nào tông phái nào. Người thiện học không thể sao nhãng điều then chốt này, tránh trường hợp chấp lời kinh là ý kinh rồi tự suy tự diễn ra nội dung kinh không đúng Chân kinh.

Chính tác dụng của Tự lực Thiện Căn làm cho khai mở trí tuệ làm cho người tiếp nhận lời kinh có được Tha lực đọc đâu hiểu đó, dễ dàng nhanh chóng hội nhập ý kinh thực chứng Chân kinh. Người trần mắt thịt thường bảo là trường hợp may mắn có được thông minh là do Trời Phật cho. Người hiểu biết thấy rõ giáo lý đạo Phật không nói đến may mắn hay rủi ro, mọi sự kiện xảy ra đều do Nhân hội với Duyên. Cái gọi là phục họa do Trời Phật ban cho hay giáng xuống thực ra là Thiện Quả hay Ác Quả do tự con người gieo trồng.

Sự ban phúc giáng họa chỉ là sự vận hành của lý Nhân Quả trong đạo Phật hay Thiên lý (lẽ Trời) trong đạo Khổng. Ông Trời ông Phật không tự dưng vô cơ ban phúc giáng họa cho ai. Trời Phật chỉ làm việc giáo hóa con người làm điều lành tránh điều ác, nghĩa là tự gieo lấy Nhân để đương nhiên hái Quả theo lý Nhân nào Quả ấy. Tin nghe và làm theo hay không là do tự con người. Trời Phật không bắt ai phải tin nghe hay phải làm theo. Đó là Chân lý tuyệt đối, cổ nhân có câu diễn ý này Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu, diễn nôm Họa và Phúc không tự dưng bước qua cửa để vào nhà ai mà chính chủ nhà tự ý đón rước vào. 

 

Từ lời kinh đến ý kinh (Phần 5)

Điều cốt yếu là luôn luôn vun bồi Thiện Căn. Đã có đủ thì vun bồi cho thêm thâm hậu, nếu chưa đủ thì lại càng cần cố gắng hơn cho được đầy đủ. Cái Tài chỉ là Quả, một khi đã gieo Nhân thì đương nhiên có Quả.

Để chấm dứt đề tài từ lời kinh đến ý kinh kẻ cầm bút xin mượn sáu câu thơ ở đoạn kết truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du:

Có Tài mà cậy chi Tài,

Chữ Tài liền với chữ Tai một vần.

Đã mang lấy Nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lần Trời gần Trời xa,

Thiên can ở tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

Đây là lời tự nhủ của Thúy Kiều có tài sắc vẹn toàn sau mười lăm năm chìm nổi được tái ngộ với Kim Trọng. Đây cũng là lời của Nguyễn Du trình bày nhân sinh quan của tác giả thấm nhuần sâu đậm lý Nhân Quả trong Phật giáo. Ở cương vị người trì niệm kinh Phật, hành giả nhận thấy đây là lời khuyến tu chân thành tha thiết: Đã trì kinh ắt có ít nhiều Thiện căn, trí tuệ đã phần nào sáng dần dần. Chớ có cậy Tài chỉ mới lý giải được ý kinh nhưng chưa hội nhập được Chân Kinh đã tưởng là giác ngộ.

 
Điều cốt yếu là luôn luôn vun bồi Thiện Căn. Đã có đủ thì vun bồi cho thêm thâm hậu, nếu chưa đủ thì lại càng cần cố gắng hơn cho được đầy đủ.

Điều cốt yếu là luôn luôn vun bồi Thiện Căn. Đã có đủ thì vun bồi cho thêm thâm hậu, nếu chưa đủ thì lại càng cần cố gắng hơn cho được đầy đủ.

Sự ngộ nhận này gốc từ tăng thượng mạn, vừa tham vừa si, mới nhận thức được một phần nhỏ đã tin là hội nhập tròn đầy. Đây là nhân bất thiện vị tế người đi trên đường Giác ngộ thường dễ mắc phải vì chỉ nhìn thấy Quả là sự thông hiểu lời kinh mà không nhìn thấy Nhân là Thiện căn đã vun trồng từ bao kiếp trước. Nhân bất thiện này làm suy giảm tiêu mòn Thiện căn đem đến tai họa mà không hay. Chữ Tài cùng một vần với chữ Tai là như vậy.

Điều cốt yếu là luôn luôn vun bồi Thiện Căn. Đã có đủ thì vun bồi cho thêm thâm hậu, nếu chưa đủ thì lại càng cần cố gắng hơn cho được đầy đủ. Cái Tài chỉ là Quả, một khi đã gieo Nhân thì đương nhiên có Quả. Quan tâm đến Tài mà quên vun bồi Thiện Căn tức chữ Tâm là tự rước họa vào thân. Người khéo tu biết thận trọng chăm chú vào việc gieo Nhân, kẻ vụng tu thì mãn và chăm chú vào việc hái Quả. Ca dao có câu:

Nước đời ba bẩy đường tu,

Khéo tu thi nổi vụng tu thì chìm.

Người thiện thiện học chân tu nhất tâm tín nguyện như thế. 

Từ lời kinh đến ý kinh